TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 214 Hoàng Trường Sa phụ trách Chúc Mừng Công Chính Lên Ngôi - Thơ Ngô Minh Hằng CÂU ĐỐI 1) Vế xuất với câu đối về "Giàn Giao Hưởng MAGA" của M-16:
Get link
Facebook
X
Pinterest
Email
Other Apps
Test:TTN177
Get link
Facebook
X
Pinterest
Email
Other Apps
-
TRANG THƠ NHẠC
VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 177
Hoàng Trường Sa phụ trách
Chúc Xuân - Thơ Ngô Minh Hằng
CÂU ĐỐI
1) Câu đối 1 về Hai Bà Trưng của Võ Đại Tôn:
Đất Nước Trời Nam, kết tụ tinh hoa hiển lộ Anh Thư, ngàn năm vằng vặc gương Liệt Nữ, Non Sông Hồng Lạc, hun đúc gan vàng lẫy lừng Nhi Nữ, muôn đời sáng chói đức Trưng Vương. (Võ Đại Tôn)
Đối lại của Hai Nu : Hùng Hổ Đất Bắc, tham tàn bành trướng mưu đồ Hán. Đế, Vạn kiếp trọc thái thú Họ Tô(Định). Thiểu Tộc Thanh Càn, chánh thức cướp cò cưỡi cổ Đại Minh, thiên thu khiếp hồn quân Nguyễn Huệ (Quang Trung). (Hai Nu)
2) Câu đối 2 về Hai Bà Trưng của Võ Đại Tôn: Tận trung với Nước, dòng SÔNG HÁT sóng gào, thương tiếc Anh Thư tuẫn tiết, Hết dạ thương Dân, đất MÊ LINH rung chuyển, thấm ơn Liệt Nữ TRƯNG VƯƠNG. (Võ Đại Tôn)
Đối lại của (.2N) : Khởi chiến trên Non, xứ LAM SƠN phát tích, ngậm ngùi Lê Lai xả thân, Trí nhân diệt Bạo, thành ĐÔNG QUAN lễ thề, Đại Việt ghi ơn LÊ LỢI. (.2N)
3) Câu đối vịnh Hai Bà Trưng của Hoàng Trường Sa: Đại Đức tài bồi sơn hà Việt Hùng Danh vĩnh trụ xã tắc Nam (Hoàng Trường Sa) Dịch nghĩa: Đức Lớn vun bồi non sông Việt Danh Hùng sống mãi xã tắc Nam (Hoàng Trường Sa)
Câu tạm đối lại của (.2N) : Địa Linh phát tích đảnh Thiên Sơn Nhân Kiệt tàng long vực Đại Hà (.2N) Dịch nghĩa: Chốn linh thiêng vươn dậy đỉnh Núi Trời, Người tài rộng rồng nằm đáy Sông Cả. (.2N)
4) Trích truyện cười "Quan thị và quan võ xỏ nhau" dùng làm vế xuất:
Xuất: Thị vào hầu, thị đứng thị trông,
Thị cũng muốn, thị không có ấy. (Quan Võ)
- Đối 1: Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa,
Vũ gặp mưa, vũ ướt cả lông. (Quan Thị)
- Đối 2: Giáp bịt mu, giáp đè giáp gắp,
Giáp thích thú, giáp kẹp ướt mèm. (Hai Nu)
(1) Giáp 甲 > (Từ điển Nguyễn Quốc Hùng) Cái vẩy, cái vỏ của loài vật. Chẳng hạn 龜甲Quy giáp > Mu rùa; (2) Giáp 夾 > (Từ điển Trần Văn Chánh) Gắp: 用筷子夾菜 Gắp thức ăn bằng đũa; (3) Giáp 汗 > (Từ điển phổ thông) Ướt đẫm; (4) Giáp 策 > (Từ điển trích dẫn) (Danh) Thích thú, khoái ý.
- Đối 3: Tài cần tiền, tài không năng khiếu,
Tài chặt gỗ, tài đóng trại hòm. (Việt Nhân)
Tài = Tiền (như tài chánh); Năng khiếu (như tài năng, thiên tài); Gỗ; Hòm (như quan tài)
5) Vế xuất về "Tội ác đcs" của Phóthườngdân:
Xuất: Đảng giàu, dân mạt. (PTD)
- Đối 1: Trăng già, núi non. (Ns Hùng Cường)
- Đối 2: Trên bảo, dưới ... lơ! (Việt Nhân)
- Đối 3: Chủ khổ, tớ giàu. (Việt Nhân)
- Đối 4: Sĩ liêm, sỉ liếm. (Việt Nhân)
6) Vế xuất về nói lái của Hai Nu:
Xuất : Trên bảo dưới ... lơ - Trên lở dưới ... bao. (Việt Nhân)
Xuất: Một Thời Kiêu Bạc - Mạt Thời Bêu Cột. (Hai Nu)
Đối: Dĩ vãng dơ dái - Dãi vã dơ dáng. (Hai Nu)
11) Vế xuất về "Nhà văn" Phạm Đình Trọng của M-16:
Xuất: Thẻ đảng trong tay, lương hưu hàng tháng, hỏi Phạm Đình Trọng có còn đang theo Đĩ? (*) (Thơ Sĩ M-16)
(*) Xem trích đoạn bài viết bưng bô của Phạm Đình Trọng trong hình sau:
THƠ
Sân Trường Cai Lậy - Thơ Ngô Văn Thọ
Sự Thật Ngày 8 Tháng 3 - Thơ Nguyễn Trọng Mai
Gia Tài Người Lính Chiến - Thơ Nguyễn Đức Hùng
Người Lính Già Ngồi Nhớ Quê Hương - Thơ Nguyễn Long An
Giấc Ngủ Tháng Tư - Thơ GLV
Trăng - Thơ Lâm Sơn Dung
Hẹn Về Chốn Cũ - Thơ Lâm Sơn Dung
Tâm Tư - Thơ Trung Ung Le K.7/68
Quê Hương Mỗi Người Chỉ Một - Thơ Trung Ung Le K.7/68
"Tết ấm từ Tym" - Thơ BP461 - Biếm họa BaBui
Gạc Ma! - Thơ Xuan Ngoc Nguyen
Ngày Pụ Nữ Vẹm - Thơ Phan Huy MPH
Xuân Vợi - Thơ Nguyên Thạch
Cô Tịch - Thơ Huỳnh Thị Tố Nga
Mười Hai Tháng Sáu - Thơ Vũ Hoàng Chương
Mười Hai Tháng Sáu
(Thơ: Vũ Hoàng Chương - Nhạc: Nguyễn Đức an - Trình bày: Mạnh Tuấn)
NHẠC
Hải Ngoại Thương Ca
(Nhạc sĩ: Nguyễn Văn Đông - Ca sĩ: Hà Thanh)
Chiều Qua Phà Hậu Giang
(Nhạc sĩ: Nhật Ngân - Ca sĩ: Phi Nhung)
"Quái Kiệt" Trần Văn Trạch Hát Tân Nhạc Bằng Giọng Miền Nam
Thương Tiếc Danh Hề Tùng Lâm Của Miền Nam
Văn Hường - Ông Vua Ca Cổ Hài
Liên Khúc: Ly Cà Phe & Chúng Mình Ba Đứa
TIẾU LÂM
1) Bẩm Chó Cả
Nhà nọ thấy quan lại tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan đến nhà chơi, trong số đó có cả mấy bạn đồng song thuở trước. Ông ta bảo người nhà dọn rượu thết. Người nhà bưng mâm lên, ông ta đứng dậy thưa:
- Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt xin các ngài chiếu cố cho.
Các quan cầm đũa, bấp mấy món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì...
Nhà nho thong thả nói:
- Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả.
2) Bốn Cẳng, Sáu Cẳng
Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (ngày nay ta nói công văn); Bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:
- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?
Anh lính lệ trả lời:
- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!
3) Sao đã vội chết
Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:
- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?
Ông lang quả quyết đáp:
- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.
Ông lão cau mặt nói:
- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết?
Ông lang xua tay nói:
- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?
4) Mua kính
Anh nọ dốt đặc cán mai, thấy các cụ già mang kính xem sách, cũng bắt chước ra chợ hỏi mua một đôi. Vào hiệu, bảo chủ đem kính ra chọn. Anh ta đeo vào, mượn một cuốn sách, giở ra xem. Xem xong, bảo chủ hiệu cho chọn đôi khác. Chủ hiệu chìu khách. Nhưng đôi nào, anh ta cũng không ưng ý, đôi nào cũng chê xấu. Chủ hiệu lấy làm lạ, khi liếc nhìn thấy anh ta cầm cuốn sách ngược, ông ta sinh nghi liền hỏi:
- Sao đôi nào anh cũng chê cả?
Anh ta đáp:
- Kính tốt thì tôi đã đọc được chữ rồi!
Chủ hiệu nói:
- Hay là anh không biết chữ?
Anh ta đáp:
- Biết chữ thì tôi đã không cần mua kính!
5) Chữ Nghĩa
Mấy thầy đồ ngồi nói chuyện với nhau về chữ nghĩa, văn chương. Có thầy kể chuyện ông Trạng Hiền đời Trần mới lên tám tuổi mà đã đối đáp được với sứ Tàu. Sứ Tàu thử tài người nước ta, đọc bài thơ:
Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn.
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
(Nghĩa là: Hai chữ nhật ngược xuôi đều là chữ nhật. Bốn chữ sơn ngược xuôi cũng là chữ sơn. Hai ông vua tranh nhau một nước. Bốn chữ khẩu tung hoành ở giữa.)
Không ai đoán ra chữ gì. Thế mà ông Trạng Hiền trả lời được đấy. Ðó là chữ Ðiền là ruộng. Sứ Tàu phục lắm.
Một anh ngồi nghe lỏm nói lại:
- Các thầy hay chữ, tôi xin đố các thầy...
"Hai cọc hai bên, khuyển trên hỏa dưới" là nghĩa gì?
Các thầy bí, nhìn nhau. Anh kia nói:
- Thưa là chữ "chó thui"!
PHIM ẢNH
Tội Ác Việt Cộng: 50 Năm Vụ Thảm Sát Cai Lậy 9/3/1974
TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 203 Hoàng Trường Sa phụ trách Lệ Đau - Thơ Xuan Ngoc Nguyen CÂU ĐỐI 1) Vế xuất lấy từ 2 câu thơ của Cao Bá Quát : Xuất: Ba hồi trống dục mồ cha kiếp, Một nhát gươm đưa mả mẹ đời. (Cao Bá Quát)
TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 202 Hoàng Trường Sa phụ trách 2/9 ... Lệ Máu - Thơ Xuan Ngoc Nguyen CÂU ĐỐI 1) Vế xuất lấy từ 2 câu thơ của Cao Bá Quát : Xuất: Ba hồi trống dục mồ cha kiếp Một nhát gươm đưa mả mẹ đời. (Cao Bá Quát)
Comments
Post a Comment